Sau khi phân tích những truyền thuyết do Norris cung cấp và báo cáo của các nhà khoa học, tôi kết luận: Exhem Prairie hiện ở trên một khu vực đền đài rất cổ xưa của thời kỳ đạo giáo (Druidiswe) hay tiền đạo giáo. Nơi mà người ta nghi rằng đã hoàn tất những lễ nghi rùng rợn nhất, và có lẽ sau đó đã nhập vào nghi lễ sùng kính thần bà mẹ vĩ đại Kibela do người La Mã đưa tới. Trên lớp gạch xây ngầm dưới đất những dòng chữ còn được giữ lại: "Mẹ... thiêng... liêng vĩ đại... sáng ta...", điều này chứng tỏ về tục sùng bái Bà mẹ vĩ đại mà người ta đã không thể cấm các công dân La Mã tuân theo. Các cuộc khai quật minh chứng rằng Ankexter là trại quân của đội binh thứ ba của hoàng đế Augustin. Tại đây đền thờ Đức Mẹ vĩ đại rất được sùng chuộng và luôn có đông khách hành hương với vô số nghi lễ qua sự chỉ đạo của quan tư tế người xứ Frigi. Truyền thuyết kể rằng sự suy yếu của tôn giáo cũ không hề làm ngưng những cuộc tế lễ Tửu thần trong lâu đài, còn các quan tư tế đã chuyển sang một đức tin mới mà không hề thay đổi nếp sống của mình. Những cuộc hành lễ bí mật vẫn tiến hành và sau khi nền thống trị của La Mã cáo chung, một số người Xắc-xông đã dựng lại ngôi đền bị phá. Họ lập nên ở đây một trung tâm thờ phụng. Khoảng gần năm 1000 trước công nguyên, Exhem Prairie được nêu lên trong biên niên sử như là một lâu đài được một khu vườn lớn bao bọc không cần rào chắn. Toà lâu đài này thuộc về một dòng tu bí ẩn và đầy quyền năng. Nó không bị người Viking phá huỷ, nhưng sau cuộc chinh phục của người Noocmăng thì có lẽ nó lâm vào tình trạng hoang tàn. Dù thế nào đi nữa thì năm 1261, Henrik đệ Tam đã ban tặng toà lâu đài cho tổ tiên tôi là đức ông Hilbert de la Power, vị nam tước Exhem đầu tiên.
Trước năm đó, thanh danh dòng họ gia đình tôi rất trong sáng, nhưng về sau có chuyện gì đó xảy ra. Trong sử biên niên năm 1307 có nêu tên một ngài De la Power "bị Thượng đế nguyền rủa", còn trong các truyền thuyết dân gian thì toà lâu đài xây cất tại nơi có ngôi đền ngẫu tượng giáo khét tiếng là khủng khiếp và ghê gớm. Những truyền thuyết này đã tạo nên mối kinh hoàng đầy mê tín và càng được thổi phồng dưới áp lực của bao chuyện đầy âm mưu đen tối. Chúng cho thấy tổ tiên dòng họ tôi là con đẻ của quỷ sứ mà trong số đó, hầu tước de Sad và Gile de Retx chỉ là những đứa trẻ vô tội, và tổ tiên tôi được gán cho cái tội dính dáng đến sự biến mất của nhiều người suốt vài thế hệ.
Ô danh nhất chính là các ngài nam tước cùng những người kế vị trực tiếp của họ. Nếu một chủ nhân nào đó của toà lâu đài có đức tính thẳng thắn thì chắc chắn họ phải chầu trời bằng cái chết mau chóng không giải thích được, để rồi một kẻ độc ác thế chỗ họ. Dường như các ngài nam tước Exhem này có một tục thờ phụng bí ẩn của riêng dòng họ, thậm chí không cho tất cả mọi thành viên trong gia đình biết và chỉ do người trưởng tộc điều khiển. Một chuyện nữa khiến tôi đau lòng là những điều xì xào về những tiếng kêu gào than khóc ngoài thung lũng vắng vẻ lạnh lẽo dưới ghềnh đá vôi, về mùi thối rữa bốc lên từ đó sau những cơn mưa, về khúc xương trắng lọt dưới chân ngựa của ngài John Clive và về gã gia nhân hoá điên sau một lần nhìn xuống tầng hầm toà lâu đài cổ. Đúng là những chuyện cổ tích kinh sợ song tầm thường vì khi đó tôi là kẻ hoài nghi. Thật khó bác bỏ câu chuyện về những người nông dân mất tích, mặc dầu vào thời trung cổ chuyện này không phải hiếm thấy.
Một số truyền thuyết kỳ lạ đến nỗi tôi lấy làm tiếc vì thời trẻ mình lại chưa học môn thần thoại đối chiếu so sánh. Chẳng hạn, một truyền thuyết giải thích những vụ thu hoạch rau quả bội thu trong các khu vườn trong lâu đài là do chúng là đồ ăn cho lũ dơi phù thuỷ mà cứ thứ bảy lại kéo lũ về đây tụ hội. Nhưng kỳ lạ hơn hết là chuyện kể về lũ chuột cống. Một lần, cả một bầy bẩn thỉu những con vật gớm ghiếc ấy chạy ào ra khỏi lâu đài và trên đường chúng nghiến ngấu chén sạch cả gà, mèo, chó, lợn sữa, cừu. Sự điên cuồng của chúng chỉ dịu đi sau khi chúng cắn chết hai nông dân. Việc đó xảy ra và chỉ ba tháng sau những người cuối cùng cư ngụ tại lâu đài ra đi.
Ngày 16 tháng sáu năm 1923 tôi chuyển nhà, cùng định cư với tôi trong lâu đài là bảy gia nhân và con mèo già tuổi nhất tên là Niggerman mà tôi mang theo từ Massachusetts, còn những con khác tôi mua được lúc sống ở nhà đại uý Norris khi công việc phục chế đang tiến hành.
Chúng tôi sống yên ổn, thoải mái trong năm ngày đầu. Sau đó con mèo già có tính phớt lạnh của tôi tỏ ra lo lắng, bồn chồn một cách lạ lùng. Nó luôn hốt hoảng nhảy từ phòng này sang phòng khác và thường xuyên đánh hơi cái gì đó. Hôm nay tại phòng làm việc trên tầng hai có vòm cung cùng các bản tường bằng gỗ sồi màu thẫm và chiếc cửa sổ kiểu gôtích ba cánh trổ ra phía thung lũng vắng lặng dưới ghềnh đá, tôi tiếp một gia nhân vừa tới than phiền rằng tất cả lũ mèo trong nhà có hành vi bất thường lo lắng. Tôi lập tức nhớ tới việc con Niggerman già đã rón rén bò dọc bức tường phía tây và lấy vuốt cào những bản gỗ mới lát phủ bức tường đá cũ.
Tôi đáp lời gia nhân rằng có thể lớp đá xây dưới các bản gỗ lát toả một thứ mùi mà người không thấy được nhưng lại tác động đến khứu giác thính nhạy của mèo. Thực tế tôi đã nghĩ như vậy và khi gã gia nhân nói có thể có chuột nhắt hay chuột cống thì tôi bảo suốt ba trăm năm nay ở đây không có chuột, thậm chí đến chuột đồng cũng không thể lọt vào đấy được. Vào hôm ấy tôi ghé qua nhà đại uý Norris nói chuyện và chàng khẳng định với tôi rằng quả sẽ là chuyện kỳ lạ một khi chuột đồng lại lọt được vào toà lâu đài bằng đá xây này.
Buổi tối sau khi nói chuyện với gia nhân như thường lệ, tôi bước vào phòng ngủ ở ngọn tháp phía tây mà tôi đã tự chọn cho mình. Một chiếc cầu thang bằng đá có từ xa xưa và một hành lang ngắn được trần thiết lại chạy từ phòng làm việc dẫn vào phòng ngủ. Phòng ngủ này hình tròn, có trần cao, bốn bức tường có lát gỗ và được trang trí bằng các tấm thảm treo tường tự tay tôi chọn mua ở Luân Đôn.
Sau khi cho con mèo Niggerman vào phòng, tôi khép chiếc cửa ra vào và nặng nề đóng theo kiểu gôtích lại, cởi quần áo dưới ánh sáng ngọn đèn điện bé xíu làm giả ngọn nến, đoạn tắt đèn và nằm xuống chiếc giường có mùng, chú mèo Niggerman thì cuộn tròn dưới chân. Tôi không buông mùng mà cứ nằm, mắt nhìn qua khe cửa sổ nhỏ hẹp: ánh hoàng hôn trên trời tắt dần, những nét trang trí hoa văn cửa sổ qua lớp rèm nom thật xinh xắn.
Có thể tôi đã thiếp đi bởi vì tôi nhớ tiếng động bất thình lình do cú nhẩy của con mèo gây ra đã khiến tôi choàng tỉnh. Trong thứ ánh sáng mờ nhạt tôi thấy hình bóng con mèo: đầu vươn về phía trước, hơi chân trước hơi khom lại, hai chân sau duỗi thẳng nom căng thẳng lắm. Nó nhìn chằm chằm vào đâu đó trên tường ở mé tây cửa sổ đó, nhưng dần dà sự chú ý của tôi đã tập trung vào cái điểm đó.
Nhìn chăm chú một lúc tôi hiểu rằng chẳng phải vô cớ mà con mèo đã tỏ ra lo lắng đến thế. Tôi có cảm giác những tấm thảm trên tường lay động, nhưng tôi không thể khẳng định chắc chắn về điều này. Điều tôi dám chắc là việc sau các tấm thảm tôi nghe thấy tiếng ồn ào khe khẽ giống như chuột nhắt hay chuột đồng vừa chạy vừa kêu. Một giây sau đó, con mèo nhảy lên một tấm tranh thảm và giật nó rơi xuống sàn làm lộ mảng tường cũ mà trên lớp vữa mới trát không hề có dấu vết con chuột nào hết.
Con Niggerman cứ dùng móng vuốt cào tấm thảm, thỉnh thoảng cố thò chân vào giữa ngách tường và sàn lát gỗ sồi, vừa đưa chân vừa chạy dọc bức tường. Nó chẳng tìm thấy gì mà miễn cưỡng trở lại giường với tôi. Suốt thời gian đó tôi không rời khỏi chỗ, nhưng rồi sau đó tôi chẳng hề ngủ được.
Sáng ra tôi hỏi tất cả mọi gia nhân, nhưng chẳng ai thấy điều gì lạ cả, chỉ có chị bếp nhớ rằng một con mèo cái ngủ trong buồng chị ta trên bậu cửa sổ bỗng nhiên rú lên đánh thức chị dậy rồi sau đó nó nhảy vọt ra cửa ra vào không khép và lao xuống cầu thang. Tôi ngủ gật cho đến bữa trưa, rồi sau đó lại nhà đại uý Norris. Chàng ta rất quan tâm đến chuyện tôi kể. Những điều xảy ra tuy nhỏ nhặt, nhưng thật lạ lùng đã thức tỉnh trí tưởng tượng của chàng, và lập tức Norris nhớ lại số điều mê tín huyền bí ở vùng này. Dựa vào chúng, Norris đưa tôi thuốc bả chuột và cái bẫy chuột và khi về đến nhà tôi liền đưa các gia nhân đặt thuốc chuột và các bẫy chuột ở trong lâu đài.
Tôi đi ngủ và mau chóng thiếp đi, nhưng chẳng bao lâu tôi tỉnh dậy vì một cơn ác mộng. Từ trên rất cao tôi nom xuống một cái hang nửa sáng nửa tối, nơi đây bùn ngập đến đầu gối, một gã quỷ chăn lợn có chòm râu trắng đang lùa những con vật gì đó nhún nhùn bị thối rữa mà bộ dạng của chúng làm cho tôi ghê tởm không sao tả xiết. Sau đó gã dừng lại gật đầu với ai đó. Thế là một đàn rất đông chuột cống lăn từ mép vực xuống để ăn thịt nghiến ngấu cả gã râu trắng lẫn những con thú kia.
Những chuyển động của con Niggerman đã thức tôi dậy. Tôi lập tức thấy vì sao nó uốn cong lưng ư ử, dùng vuốt cào chân tôi. Khắp nơi đều nghe thấy tiếng những con chuột cống to, đói chạy khắp lâu đài. Trời tối như mực, vì thế trong bóng tối tôi không thể nhìn rõ các bức tranh thảm có lay động không, vì vậy tôi bật đèn lên.
Khi bóng đèn sáng thì tôi thấy các tấm thảm đung đưa khiến cho những tua viền độc đáo rung rinh tựa hồ vũ điệu của thần chết. Nhưng rồi cả sự rung rinh lẫn mọi tiếng động chấm dứt ngay. Nhảy từ trên giường xuống, tôi với lấy tay nắm túi chườm nóng dùng than và dùng nó để chọc sâu vào đằng sau các tấm tranh thảm và nhấc một cái lên. Ở đấy chẳng có gì cả chỉ một bức tường trát vữa, và thậm chí con mèo cũng thôi cái vẻ căng thẳng. Tôi xem xét cái bẫy chuột được đặt trong phòng. Nắp bẫy sập xuống nhưng bẫy rỗng không: thậm chí một chút xíu lông cũng không thấy.
Giờ thì chẳng còn nói gì tới việc ngủ nghê nữa, vì vậy tôi cầm cây nến đi cùng con mèo theo hành lang tới chỗ cầu thang dẫn xuống phòng làm việc của tôi. Nhưng khi chúng tôi vừa bước đến các bậc thang đá thì con Niggerman vọt lên trước và biến mất. Khi tôi bước vào phòng làm việc thì lập tức nghe thấy những âm thanh mà không thể lẫn lộn với bất cứ cái gì.
Những tấm ván lát gỗ sồi vọng lên tiếng đàn chuột kêu, còn con Niggerman lao tới lao lui với vẻ cuồng nhiệt của gã thợ săn bị mất con mồi. Tôi bật đèn, nhưng lần này tiếng động không chấm dứt. Bọn chuột tiếp tục trò nghịch của chúng và ầm ầm với sức mạnh đến mức tôi có thể xác định được hướng chung trong cuộc di chuyển của chúng. Quả là đang diễn ra cuộc chuyển dịch khổng lồ của đám sinh vật này từ đâu đó bên trên xuống tầng hầm hoặc còn sâu hơn nữa.
Tôi nghe thấy tiếng chân bước ở hành lang, cửa mở ra và hai gia nhân xuất hiện. Hoá ra là tất cả những con mèo còn lại bỗng nhiên đều gầm gừ và cong lưng lên rồi sau đó chúng lao xuống cầu thang và bây giờ đang meo meo và cào cào vào các cửa ra vào dẫn xuống tầng hầm. Tôi hỏi xem hai gia nhân kia có nghe thấy chuột không thì họ lắc đầu. Tôi bảo họ để ý đến tiếng sột soạt nhưng lập tức nhận ra là đã im ắng.
Hai gia nhân đi kèm tôi xuống cửa tầng ngầm nhưng lũ mèo đã tản mát đi hết cả. Tôi bèn quyết định xem xét tầng hầm sau, hiện thời chỉ xem các bẫy chuột thôi. Tất cả các bẫy đều sập nhưng không có con chuột nào mắc bẫy cả. Tôi cứ ngồi vậy đến sáng trong phòng làm việc rồi thiếp đi một lúc đến trưa trong chiếc ghế bành ở thư viện, chính việc đặt cái ghế bành này đã làm hỏng đi nội thất Trung cổ. Sau đó tôi điện thoại cho đại uý Norris để chàng đến và giúp xem xét việc tầng hầm.
tiep